Triết học có và không của Phật giáo ở Ấn Độ

 “ có và không của  ở ” mà  đang cầm trên tay là  gồm nhiều bài viết ngắn, được viết trong   còn đang du học tại  (Taiwan), với nội dung chủ yếu phân tích    (bhŒva) và không (Sènyatˆ) là hai   lớn của  ở ,   về mối quan hệ thiết thân giữa hai  này. Để  được trình bày   đã thêm vào một số bài    hai hệ  này như  , , 12  và 6 nhân 4 duyên.

Thông thường  biết, ‘có’ là hệ  của phái  (SarvŒstivŒdin) thuộc   , và ‘không’ là hệ  của  . Như  biết,  , chủ trương không  những  mang tính siêu hình như  là  ,  hay , thân và mạng là một hay khác,  sau khi  còn hay mất… Những  này không được  , đó chính là  dẫn đến   . Đầu tiên phái  (VŒts´putr´ya)  chủ trương ‘Ngã pháp hằng hữu’ (Pudgala), cho rằng xác thân và  không bị mất. Chủ trương này không được phái  (Mahi§Œsaka) đồng tình nên chủ trương ‘Quá khứ và  là , chỉ có   là thật có’.  (Saravastivada) không đồng tình cả hai phái này, phủ nhận hai  trên và đưa ra : ‘Ba  là   và  là có thật,   của các pháp là không bị mất đi,  tồn tại’  cách khác, phái này cho rằng,  và  là có thật. ,   này, dù gì đi nữa, trong ấy ẩn tàng   với     của . Do vậy, đây chính là động cơ để hình thành hệ  ‘không’ của  .

Không (sènyatˆ) mà   đề cập, nó không đồng nghĩa là , trống không, không có gì cả, nó cũng không mang  ‘nếu  đối với  thì  cũng không’ như người  đã lý giải  không của  , mà chữ ‘không’ này mang : Sự  của  như dòng chảy, không , không có tướng .  đó không thể gọi là ‘có’ cũng không thể gọi là ‘không’; có nhưng cái có đó mang tính , cho nên  (NŒgŒrjuna) gọi là  (praj�Œpti); không nhưng không phải là không có, cho nên gọi là ‘không tánh’ (S. §ènyatŒ, P. su��atˆ). Đây chính là  chữ ‘không’ trong  .

Những   về  này, viết bằng ngoại ngữ thì có khá nhiều, nhưng viết bằng tiếng Việt có rất ít, nhất là  chuyên đề  về phái  thì lại càng ,  đúng hơn là không có. Đây cũng chính là  để  này đến , nó chỉ mang tính gợi ý, tạo sự  cho   được chú ý, nhất là  .

Điểm đặc thù trong  này là  rất chú trọng đến văn bản học, khi trình bày  gì đều có  và chú thích ,  dùng  sử học để phân tích mối quan  sau, theo quá trình phát triển của  , và vay mượn   học để   và lý giải những  dị biệt giữa nguyên bản và dịch bản khi  .

Sự ra đời  này, nhằm giúp cho người   có thêm nguồn tư liệu và , để  rộng đường suy tư và   của .

 

Đài Bắc ngày 14 tháng 12 năm 2007

THÍCH HẠNH BÌNH

Related posts

Cốt lõi Kinh Trường A Hàm

Cốt lõi Kinh Trung A Hàm

Cốt lõi Kinh Tạp A Hàm